A Kiều - Chương 2
3
“Phải sống cho thật đó! A Kiều tỷ!”
Xuống thuyền, Xuân Sinh chụm tay làm loa, lớn tiếng gọi với theo .
Ta ở bến đò, đầu vẫy tay chào .
Ta đếm xem còn bao nhiêu tiền đủ để tìm chỗ nương thân.
Mới phát hiện hai miếng bạc vụn đưa cho Xuân Sinh chẳng biết từ khi nào đã lén đặt giỏ tre.
Thuyền đã rời bến, đuổi theo kịp.
Thôi, đành để trả cho .
Ở Thanh Châu, chạy khắp mấy tửu lâu trong ba ngày liền, nơi thì tuyển thêm , nơi thì cứ ép công giảm lương.
Cuối cùng một chỗ gật đầu nhận.
Chưởng quầy thử việc , để nấu thử ba ngày.
Không biết là chỗ nào ăn khỏe đến , cơm hấp lên đủ cho nhà họ Mạnh ăn cả nửa năm. Ta dám sơ suất, bận đến mức chân chạm đất.
Tên chưởng quầy râu con kiến , lần nào ngang cũng mỉm gật đầu.
Ta cứ ngỡ là đã qua .
Ai ngờ đến ngày thứ ba, trở mặt nhận , xách cùng hành lý ném khỏi cửa: “Cô nương nấu ăn dở quá, khách ăn xong đau bụng, bọn còn bồi thường cả đống bạc đó!”
Ta ngốc mấy cũng hiểu là lừa.
Ta , chỉ lau lau mắt nhặt hành lý lên, phủi lớp bụi bên .
Đến ngày thứ năm, tiền trong gần cạn, hiệu cầm đồ, định mang cây trâm cầm
Bỗng một thiếu niên dáng thư sinh gọi : “Nương tử, xin dừng bước.”
Ta quen .
“Mấy ngày , nấu cơm cho thư viện bọn là nương tử ?”
“Không, mấy ngày nấu cho Khách Vân Lâu, từng nấu cho thư viện nào cả.”
“Vậy thì đúng , thư viện bọn đặt cơm của Khách Vân Lâu.”
Ta chợt nhớ chưởng quầy khách ăn xong đau bụng, bèn lo lắng hỏi: “Các ăn trúng gì ?”
“Không ai đau bụng cả.” Thiếu niên , “Mọi đều khen ngon. Sau đó bọn đặt thêm hai ngày nữa, nhưng Khách Vân Lâu chẳng còn nấu ngon như . Hỏi thăm thì mới biết chưởng quầy bên đó tâm.”
Vậy nên?
“Thư viện bọn đang thiếu một quản sự nội viện. Việc cực chút, ngoài nấu cơm còn giặt giũ. bao ăn ở, biết nương tử bằng lòng ?”
Đó là Thư Viện Quan Hạc, nổi danh bậc nhất ở Thanh Châu, tựa lưng núi, mặt là hồ nước.
Ta dòng chữ rồng bay phượng múa biển hiệu, cũng chẳng đoán ý sâu xa.
Chỉ thấy mảnh đất hoang dãy phòng học nếu khai khẩn trồng hai vườn rau cũng , thả thêm vài con gà thì càng .
Các trong thư viện thích tre, nên quanh trường nhiều rừng trúc.
Ta nghĩ thế cũng , măng non nấu canh với thịt muối thì tuyệt, còn tre già chẻ làm giàn trồng đậu.
Ta thích trồng đậu, trồng bí, nhưng Mạnh Hạc Thư thích. Hắn bảo trong sân nên trồng mai, mùa đông ngắm mai mới gọi là tao nhã.
Ta vui vẻ vì mà chuyển cả một vườn hồng mai.
Về mới biết, cô nương Ngọc Gia… cũng thích hoa mai.
Thấy im lặng, thiếu niên dè dặt hỏi: “Nương tử gì lo ngại ? Là do tiền công tháng …”
“Ở đây… thể trồng rau ?”
“Dĩ nhiên là !”
Ta gật đầu.
“Vậy thì .”
4
Gần thư viện mấy hộ dân cư.
Thiếu niên tìm hôm tên là Hứa Thường.
Hứa Thường dặn dò: “Người trong thư viện đều thân thiện, mấy nhà dân gần đây cũng dễ sống, chỉ một kẻ… đừng dính dáng gì tới ‘chó ghẻ’.”
Chó ghẻ?
Hứa Thường nghiến răng : “Chính là A Hổ, thứ con hoang mẹ sinh mà chẳng ai dạy dỗ.”
Ta từng khác kể qua.
A Hổ là một đứa trẻ mười tuổi, cha tái giá, mẹ lấy chồng, bỏ một nó, ai đoái hoài.
Trẻ con chẳng ai chơi với nó, đều nó dối, tay chân sạch sẽ, trộm gà bắt chó.
Hơn nữa nó khỏe, cứ thích đánh .
Ai chọc giận nó, nó liền nửa đêm xô đổ giàn mướp nhà , mở chuồng gà mời chồn hoang tới “thăm”.
Trẻ con ghét nó đã đành, nhưng Hứa Thường hai mươi tuổi kết oán với đứa nhỏ mười tuổi thì thật kỳ lạ.
Ngờ hai năm , A Hổ đặt bẫy bắt thỏ hoang, hại Hứa Thường té gãy chân, lỡ mất kỳ thi.
Mà đề thi năm đó, chính là môn Hứa Thường giỏi nhất – sử luận.
Từ đó, Hứa Thường hận nó thấu xương.
Hứa Thường đánh nó, A Hổ liền ngả lăn đất, bộ dạng lêu lêu mất dạy: “Đánh ! Người lớn đánh con nít! Thầy đồ đánh ngay đây !”
Hứa Thường nuốt trôi cơn giận, bèn mua kẹo chia cho đám trẻ quanh đây, xúi tụi nó đánh A Hổ một trận.
A Hổ đánh, cũng chẳng chẳng nháo, chỉ lăn lộn bùn đất như chó ghẻ thật sự: “Hê hê, đau, chẳng đau tí nào.”
Mặt dày mày dạn, chẳng ai trong thư viện trị nổi nó.
Hứa Thường đành bó tay, nhận xui xẻo.
Không ngờ chẳng đụng tới nó, thì nó đụng tới .
Nó trộm con gà lông mượt trong chuồng của , mang núi nướng ăn.
Đùi gà quá nóng, rơi xuống đất, nó chẳng chê bẩn, phủi phủi lớp đất bên ngoài nhét miệng.
Lúc nuốt thì động vết thương trong miệng, đau đến nỗi hút một , nhưng vẫn cản nổi tốc độ nhai ngấu nghiến.
Nó ăn quá mải mê nên nhận đã từ lúc nào.
Ta vỗ nhẹ vai nó: “Gà lông mượt nướng kiểu ngon .”
A Hổ giật run bắn, ho sặc sụa.
Ta vỗ lưng nó: “Loại gà nên hầm nấm nấu canh, hoặc xào ăn với mì thì hợp hơn.”
Hai bát canh gà, một của một cho nó.
Chỉ là bát của nó tới hai cái đùi.
Cũng như khi , nấu canh gà cho Bách Nhi và Mạnh Hạc Thư, cha con họ mỗi một chiếc đùi.
A Hổ bán tín bán nghi , nhưng cưỡng nổi hương canh quá thơm, đùi gà quá béo.
“Bà gì?”
“Muốn với cháu là, gà nên nấu canh.”
“Canh độc hả? Bà tưởng dám ăn ?”
A Hổ bưng bát, bộ dạng như liều mạng.
Ta thấy rõ ràng ánh mắt nó trợn to ngay khi húp miếng đầu tiên. Nó ăn như bão lốc, nghi ngờ là đến cả cái lưỡi nó cũng nuốt mất.
Ta nhịn cảm thán: quả sai khi , “con trai nửa lớn, ăn đến rạc cha mẹ.”
Sau khi húp xong bát canh thứ ba, ánh mắt A Hổ sáng rõ như lau sạch.
“Sau nếu đói, đừng trộm nữa, đến đây ăn cơm là .”
Nó dùng tay áo dơ đến màu gốc lau miệng.
Đang định gì đó thì ngẩng đầu, bắt gặp Hứa Thường bước , lập tức nữa, đặt bát xuống liền bỏ chạy.
Hứa Thường khinh khỉnh nhổ một tiếng theo bóng nó: “Nương tử đừng mềm lòng, cái loại sói mắt trắng, nuôi chẳng nên thân .”
Thật mềm lòng.
Chỉ là nghĩ, một đứa trẻ biết quý đồ ăn, chắc cũng chẳng đến mức xa.
Thế nhưng hôm , cái giàn đậu dựng trường đổ.
Hứa Thường dẫn đến làm chứng, còn A Hổ thì luống cuống cạnh cái giàn đổ nát.
Chưa để mở miệng, A Hổ đã đẩy Hứa Thường ngã chổng vó, chạy mất dạng.
“Thằng oắt con chết tiệt! Kiều nương tử đối với nó mà nó phá hoại sân trường.”
Ta nghĩ một lát : “Tối qua gió lớn cả đêm, thêm mưa to, khi là do chống giàn chắc.”
Tối đó, ngoài sân một cái bóng lén lút xổm.
Ta hâm canh gà hôm qua, mùi thơm lan , cái bóng đã nhấp nhổm yên.
“…Giàn đẩy , tối qua gió to, đã nghĩ là giàn của bà gió thổi ngã, nên mới chạy qua xem.”
“Nói thì , còn bỏ chạy?”
A Hổ cúi đầu, giọng mang theo vẻ tủi thân như sắp : “Không chạy… nhưng sợ, sợ bà hỏi mà chửi .”
“Vậy từ nay chuyện gì, hỏi ?”
A Hổ trả lời.
Nó bưng cả bát canh lên uống, bát lớn che khuất cả mặt, mãi chịu hạ xuống.
Ta trêu: “Gà lông mượt mà trộn với nước mắt thì ngon , sẽ mặn đấy.”
5
Chớp mắt đã sang hè.
Ve ngoài vườn kêu râm ran, bóng cây rợp mát khắp sân.
Các trong thư viện học xa, hôm nay nhàn rỗi, đem quần áo và chăn đệm của học trò giặt, phơi nắng.
“Không sách , đầu óc con ngu lắm.” A Hổ giúp chôn chặt giá phơi, ngừng lắc đầu.
“Với trong thư viện ai cũng ghét con, con cũng ghét họ.”
A Hổ mười tuổi, lớn hơn Bách Nhi ba tuổi.
Bách Nhi đã thuộc thiên tự văn, còn biết làm mấy phép tính nhỏ. Còn A Hổ, cái gì cũng biết, ngay cả chữ lớn còn nhận chẳng mấy cái.
Ta nghĩ, để dành nửa năm tiền, kiếm cho A Hổ một chỗ học hành.
“Con biết chữ, cũng tay nghề gì, lỡ bắt nạt thì ?”
“Nếu ai bắt nạt con, con sẽ nhờ mẹ chống lưng!”
“Lúc đó mẹ đã già , con tính ?”
Câu khiến A Hổ buồn hẳn, nó níu lấy tay áo , siết thật chặt: “Mẹ già! Mãi mãi già!”
“Được , mẹ già, mẹ sẽ luôn ở bên con.”
Ta xuống, lau nước mắt cho nó.
Bỗng lưng vang lên một giọng , mang theo cả thể tin và mừng rỡ khôn cùng: “…A Kiều?”
Gió thổi tung quần áo đầy sân, phất phơ như cánh buồm mặt nước, mơ hồ lay động.
Ta dậy, thấy Mạnh Hạc Thư đang dắt tay Bách Nhi, lớp “buồm”, cách như ngăn bởi một con sông lớn: “…Là A Kiều ?”
Có lẽ do chăm sóc mang thai vất vả, đã gầy nhiều.
Hắn dám bước tới, chỉ yên , mắt dần hoe đỏ.
Là Bách Nhi buông tay , gọi mẹ, như xưa nhào lòng làm nũng.
Lại A Hổ hung hăng đẩy ngã nhào.
A Hổ ôm chặt tay , ánh mắt đề phòng như một chú hổ con giữ đồ ăn: “Ngươi là ai? Dựa mà gọi mẹ là mẹ!”
Mạnh Hạc Thư giật , nhưng thấy A Hổ còn cao hơn cả Bách Nhi, sự nghi hoặc trong mắt cũng vơi một nửa.
Ta tất nhiên sẽ ngây thơ cho rằng Mạnh Hạc Thư bôn ba đường xa là để đến tìm .
Ta bỗng hiểu điều gì đó, kiễng chân lưng : “Ngươi đến đây…là vì cô nương Ngọc Gia cũng đến ?”
Thấy dè dặt hỏi như , Mạnh Hạc Thư ánh mắt đầy chua xót.